Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012
Đùi vịt nướng xốt X.O
Cùng với các gia vị truyền thống như bột ngọt, hạt nêm, tiêu, ớt, tỏi… đùi vịt nướng còn được tăng vị bởi xốt X.O. Sự kết hợp giữa vị mặn, ngọt, chua, cay… của xốt và thịt vịt tạo cho món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn tạo nên món nướng ngon
Nguyên liệu:
300g đùi vịt
50g cà chua bi
100g xà lách
1 thìa cà phê hạt nêm
1 thìa cà phê tỏi băm
1 thìa cà phê tiêu xay, 1 thìa cà phê muối, 1 thìa cà phê
Ớt băm, 1 thìa cà phê dầu ăn
Làm xốt X.O: Cho 4 thìa súp nước dùng, 1 thìa cà phê hạt nêm, 2 thìa súp xốt X.O vào chén khuấy cho tan đều gia vị, cho vào chảo nhỏ, đun nhỏ lửa đến khi xốt sôi, cho 3/4 thìa cà phê bột năng vào để làm sệt xốt
Cách làm:
Đùi vịt làm sạch, ướp hạt nêm, muối tiêu, dầu ăn, để khoảng 15 phút cho thấm gia vị.
Nướng vịt chín vàng trên than hồng hoặc lò nướng.
Cà chua bi rửa sạch, xắt đôi. Rau xà lách nhặt rửa sạch, để ráo.
Cho vịt ra đĩa, rưới đều xốt X.O lên, ăn kèm với cà chua, rau xà lách.
Mách nhỏ:
Vịt tuy làm sạch nhưng vẫn còn mùi hôi do tuyến nang lông sót lại, bạn hãy dùng chút rượu trắng và muối xát đều lên da vịt và xả sạch nước, thịt vịt sẽ trắng và sạch.
Theo Tapchilamdep.com
Sườn cọng nướng cay
Hương vị trọn vẹn của món nướng
Bữa cơm sẽ thật nồng nàn với sự trọn vẹn của hương vị các món nướng ngon đậm đà. Sườn cọng nướng cay
Vị cay cay của món sườn, giúp cho mâm cơm thật nồng nàn với sự trọn vẹn của hương vị.
Nguyên liệu:
500g sườn heo
1 củ tỏi
5 trái ớt hiểm
3 thìa cà phê hạt nêm
3 thìa súp dầu ăn
1/2 chén sữa dùng để nấu ăn
Cách làm:
Sườn heo rửa sạch, chặt khúc vừa ăn.
Cho ớt, tỏi, hạt nêm, dầu ăn vào máy xay sinh tố, xay nhuyễn.
Trút hỗn hợp vừa xay vào sườn heo, thêm sữa dùng để nấu ăn vào, ướp sườn cho thấm.
Cho sườn vào lò nướng, nướng trong khoảng 15 phút, khi sườn ngả sang màu vàng cánh gián là được.
Cho sườn nướng ra đĩa, dùng với cơm, ăn kèm xà lách, cà chua.
Mách nhỏ:
Bạn có thể lấy nước ướp sườn, đun sôi trên lửa nhỏ cho hỗn hợp hơi sệt lại để làm nước xốt rưới lên thịt.
Bữa cơm sẽ thật nồng nàn với sự trọn vẹn của hương vị các món nướng ngon đậm đà. Sườn cọng nướng cay
Vị cay cay của món sườn, giúp cho mâm cơm thật nồng nàn với sự trọn vẹn của hương vị.
Nguyên liệu:
500g sườn heo
1 củ tỏi
5 trái ớt hiểm
3 thìa cà phê hạt nêm
3 thìa súp dầu ăn
1/2 chén sữa dùng để nấu ăn
Cách làm:
Sườn heo rửa sạch, chặt khúc vừa ăn.
Cho ớt, tỏi, hạt nêm, dầu ăn vào máy xay sinh tố, xay nhuyễn.
Trút hỗn hợp vừa xay vào sườn heo, thêm sữa dùng để nấu ăn vào, ướp sườn cho thấm.
Cho sườn vào lò nướng, nướng trong khoảng 15 phút, khi sườn ngả sang màu vàng cánh gián là được.
Cho sườn nướng ra đĩa, dùng với cơm, ăn kèm xà lách, cà chua.
Mách nhỏ:
Bạn có thể lấy nước ướp sườn, đun sôi trên lửa nhỏ cho hỗn hợp hơi sệt lại để làm nước xốt rưới lên thịt.
Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012
thịt nướng riềng mẻ
Thịt nướng có mùi rất thơm và rất vừa miệng, ăn sẽ tốn cơm lắm đây!
1. Nguyên liệu
- 500g thịt ba rọi
- 1 củ riềng, 1 củ nghệ
- Mẻ, gia vị
2. Cách làm
Thịt ba rọi rửa sạch, thái miếng vừa ăn.
Nghệ và riềng băm nhỏ.
Mẻ xay nhuyễn rồi lọc qua rây.
Ướp thịt với tỏi , riềng và nghệ băm, 2 muỗng canh mẻ, 1 muỗng café hạt nêm, 1 muỗng café đường và 2 muỗng café nước mắm để ngấm 30 phút.
Xếp thịt lên vỉ và nướng đến khi chín. Món thịt này nướng than là ngon nhất các bạn nhé! Trong lúc nướng, bạn có thể phết thêm dầu ăn để thịt không bị khô.
Thịt chín cho ra đĩa và ăn với cơm nóng. Nếu muốn thịt có màu đẹp hơn thì các bạn giã nghệ thay vì băm nhỏ nhé!
1. Nguyên liệu
- 500g thịt ba rọi
- 1 củ riềng, 1 củ nghệ
- Mẻ, gia vị
2. Cách làm
Thịt ba rọi rửa sạch, thái miếng vừa ăn.
Nghệ và riềng băm nhỏ.
Mẻ xay nhuyễn rồi lọc qua rây.
Ướp thịt với tỏi , riềng và nghệ băm, 2 muỗng canh mẻ, 1 muỗng café hạt nêm, 1 muỗng café đường và 2 muỗng café nước mắm để ngấm 30 phút.
Xếp thịt lên vỉ và nướng đến khi chín. Món thịt này nướng than là ngon nhất các bạn nhé! Trong lúc nướng, bạn có thể phết thêm dầu ăn để thịt không bị khô.
Cá tầm nướng lá dừa
Món cá ngoại nhập này sẽ trở nên gần gũi hơn khi được ướp với hương thơm của lá dừa non rất Việt, món ăn vì thế cũng dễ dùng hơn, 1 món ngon.
Nguyên liệu: mon ngon
300g phi lê cá tầm
50g cơm dừa nạo
3 cọng lá dừa non
1
thìa cà phê tỏi băm, 1 thìa cà phê hành tím băm, 1 thìa cà phê muối, 1
thìa cà phê nước mắm, ½ thìa cà phê hạt nêm, ½ thìa cà phê đường, rau
răm, tương ớt dùng kèm.
Thực hiện:
Phi
lê cá tầm rửa sạch, cắt miếng hình chữ nhật dài 5cm, dày 1cm. Ướp hành,
tỏi băm, muối, nước mắm, hạt nêm, đường, cơm dừa để thấm 15 phút.
Lá
dừa rửa sạch, bỏ cọng, lấy lá, cắt xéo dài. Cho cá vào, cuộn lại, đem
nướng ở nhiệt độ 175 độ C khoảng 8 phút là cá chín. Lấy ra, dùng kèm rau
răm, chấm tương ớt.
Mách nhỏ:
Nếu được nên nướng cá bằng lò than sẽ ngon hơn dùng lò nướng. Không nên nướng cá trên lửa lớn hoặc thời gian nướng lâu quá cá sẽ bị khô, không ngon.
Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012
Cách làm mứt khoai tây
Cũng gần đến tết rồi hãy cùng chung tay làm mứt khoai tây thôi! mon nuong
Nguyên liệu:
Khoai tây: 1kg (gọt vỏ cắt lát dày khoảng 0,5cm)
Đường: 07kg
Vôi bột đã tôi: 30gr
Phèn chua khoảng: 10gr
Muối, vani,
Cách làm:
Cho khoảng 30gr vôi đã tôi vào 2l nước. Để lắng trong qua đêm
Khoai tây ngâm vào nước vôi trong khoảng 1,5h. Mang ra rửa sạch.
Đun sôi nước với phèn chua, thả khoai vào để sôi khoảng 10′ đổ ra rổ để ráo.
Ngâm đường và khoảng khoảng 3h để đường chảy ra.
Đổ vào nồi đun lửa to đến khi cạn nước đường thì bớt lửa và đảo nhẹ để tránh cháy. Khi đường kéo sợi thì tắt bếp mang ra để nguội.
Tổng hợp
Cách làm bánh chưng ngày tết
Bánh chưng là một món ngon truyền thống của dân tộc
Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất
trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá
dong, bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt,
cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Bánh chưng
là món quà tết ý nghĩa của bạn dành tặng cho cha mẹ, người thân.
Nguyên liệu
Lá: Thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít (một loại tre), lá chuối hay thậm chí cả lá bàng , giấy bạc.
Lạt buộc: Bánh chưng thường dùng lạt giang được chẻ từ ống cây giang. Lạt được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Nhiều người chọn nếp cái hoa vàng hay nếp nương, thực ra không đến nỗi cầu kỳ như thế vì đây là loại bánh mang tính đại chúng.
Đỗ xanh: Đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ v.v. sẽ thơm và bở hơn). Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất
Thịt: Thường là thịt lợn, chọn lợn ỉ được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Thịt ba chỉ (ba dọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn. Một số nơi, như tại Trường Sa, những người lính còn làm món bánh chưng với nhân độc nhất vô nhị là dùng thịt chó hay thịt gà.
Gia vị các loại: Hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Ngoài ra một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường sử dụng tẩm ướp trong nhân bánh tại Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn cầu kỳ gia thêm loại gia vị này.
Phụ gia tạo màu: Bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách quay mặt trên của lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có màu xanh ngọc.
Chuẩn bị
Lá dong: Rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi gói lá dong được người gói bánh dùng dao bài mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên dùng để gọt) cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng, để ráo nước (nếu lá quá giòn có thể hấp một chút để lá mềm dễ gói).
Gạo nếp: Nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.
Đỗ xanh: Đỗ làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ. Cũng có một số nơi nhét sẵn thịt lợn vào giữa nắm đỗ.
Thịt lợn: Thái thành miếng to bản và dài, tẩm ướp chút muối, hạt tiêu bột (tốt nhất là hạt tiêu đã được rang thơm, tán nhỏ), hành củ, không dùng nước mắm khi ướp
Nguyên liệu
Lá: Thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít (một loại tre), lá chuối hay thậm chí cả lá bàng , giấy bạc.
Lạt buộc: Bánh chưng thường dùng lạt giang được chẻ từ ống cây giang. Lạt được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Nhiều người chọn nếp cái hoa vàng hay nếp nương, thực ra không đến nỗi cầu kỳ như thế vì đây là loại bánh mang tính đại chúng.
Đỗ xanh: Đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ v.v. sẽ thơm và bở hơn). Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất
Thịt: Thường là thịt lợn, chọn lợn ỉ được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc). Thịt ba chỉ (ba dọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn. Một số nơi, như tại Trường Sa, những người lính còn làm món bánh chưng với nhân độc nhất vô nhị là dùng thịt chó hay thịt gà.
Gia vị các loại: Hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Ngoài ra một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường sử dụng tẩm ướp trong nhân bánh tại Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn cầu kỳ gia thêm loại gia vị này.
Phụ gia tạo màu: Bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách quay mặt trên của lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có màu xanh ngọc.
Chuẩn bị
Lá dong: Rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi gói lá dong được người gói bánh dùng dao bài mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên dùng để gọt) cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng, để ráo nước (nếu lá quá giòn có thể hấp một chút để lá mềm dễ gói).
Gạo nếp: Nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.
Đỗ xanh: Đỗ làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ. Cũng có một số nơi nhét sẵn thịt lợn vào giữa nắm đỗ.
Thịt lợn: Thái thành miếng to bản và dài, tẩm ướp chút muối, hạt tiêu bột (tốt nhất là hạt tiêu đã được rang thơm, tán nhỏ), hành củ, không dùng nước mắm khi ướp
Thứ Ba, 7 tháng 2, 2012
Mâm cỗ Tết trong ẩm thực Việt Nam
TS Nguyễn Thị Diệu Thảo
Món nướng Theo
phong tục Việt nam, món nướng Tết là dịp đặc biệt quan trọng để gia đình có cơ
hội đoàn tụ họp mặt, thăm hỏi sức khỏe và chúc nhau những gì tốt đẹp
nhất sẽ đến trong năm mới. Đây cũng chính là ngày lễ trọng đại nhất
trong năm của người Việt. Người ta vẫn dùng từ “ăn Tết”
để nói đến tất cả các công việc chuẩn bị cho các ngày đầu năm mới, từ
việc trang trí nhà cửa, cúng kiếng, (món nướng) thăm hỏi, biếu xén và chuẩn bị đồ
ăn, thức uống, vui chơi cho khách đến thăm nhà cũng như cho các thành
viên trong nhà. Từ “ăn” trong cụm từ “ăn Tết” phần nào nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của mâm cơm Tết trong gia đình vào những dịp này. Người miền Bắc thường dùng “mâm cỗ” để nói đến mâm cơm giành cho những dịp trọng đại. Đó là một bữa ăn có nhiều món ngon, món đặc biệt mà ngày thường không có. “Mâm
cỗ” không chỉ dùng cho dịp Tết mà còn là những dịp cưới xin, tân gia,
mừng thọ.Món nướng Đi “ăn cỗ” ở miền Bắc cũng giống như đi “ăn tiệc” ở miền Nam.
Theo cách hiểu đơn giản, “cỗ” hay “tiệc” là sự kết hợp bày biện các món
ăn được chế biến từ nhiều phương thức lại với nhau theo một nguyên tắc
tương đối hài hòa về nhiều mặt. Mâm cỗ có nhiều món ăn với màu sắc, mùi
vị phong phú và đặc biệt là ý nghĩa của các món ăn bày ra trong bữa cỗ.
Người miền Bắc gọi là “mâm cỗ” chứ không dùng từ “bàn cỗ” vì nó gắn liền
với tập quán ăn uống của người miền Bắc và người miền
Bắc Trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hả Tĩnh). Trong mâm cỗ, dù là cỗ
cưới, hỏi, kỵ (giỗ) hay cỗ Tết, mọi người ngồi quây quần quanh một mâm,
thường là sáu người ăn, trong đó bày đầy đủ các món ăn, gồm nhiều đĩa,
nhiều bát thức ăn, từ món canh, ninh, xào, luộc.... Nhiều mâm cỗ có
nhiều món nên phải xếp chồng bát, đĩa lên nhau, hai, ba, hoặc có khi là
năm, bảy tầng. Vì lý do đó mà trong ngôn ngữ Việt Nam có thành ngữ “mâm
cao, cỗ đầy” để mô tả hình ảnh những mâm cỗ truyền thống của người Việt
miền Bắc và Bắc Trung bộ ngày xưa. Tuy nhiên người miền Nam không dùng
“ăn tiệc” cho việc ăn cơm vào dịp Tết. Mâm cơm ngày Tết ở miền Nam vì
vậy không được gọi là “mâm cỗ” mà vẫn được xem là mâm cơm, chỉ có phần
thịnh soạn và nhiều món ăn đặc trưng dành cho gia đình, bạn bè có dịp
họp mặt và thưởng thức.món ngon Mâm cơm để cúng ông bà tổ tiên chủ yếu là trái
cây, hoa quả có mặt thường xuyên trên bàn thờ, còn là những món ăn chọn
lọc trong những dịp trọng đại như giao thừa và ba ngày Tết. Khi đề cập
đến ẩm thực Việt nói chung, mâm cỗ Tết được
sử dụng chung cho mâm cơm ngày Tết ở cả cả ba miền với ý muốn tôn trọng
giá trị truyền thống của Việt Nam từ ngàn xưa.món ngon Theo truyền thống, trước khi “ăn tết”, người ta phải có nghi thức cúng Giao thừa. Ngoài việc cúng Trời, cúng Đất, còn
là dịp để nhà nhà bày tỏ lòng hiếu kính với các bậc tổ tiên và người
thân đã khuất cùng về sum họp với con cháu. Món ngon Do đó, ngoài việc chuẩn bị
đồ ăn thức uống cho gia đình thì chiều ba mươi Tết, người Việt còn lo
cúng kiếng để rước ông bà.món ngon
Mâm cổ Tết Hà Nội. Ảnh Ý Nhạc
Mâm cơm cúng Giao thừa
Cúng
Giao thừa là một nghi thức mang ý nghĩa quan trọng đối với người Việt
Nam vào dịp cuối năm, chuẩn bị đón mừng năm mới. Đây là dịp con cháu tỏ
lòng hiếu kính với ông bà tổ tiên, đón ông bà về chung vui cùng con
cháu cũng như cầu mong tổ tiên phù hộ xua đi những xui xẻo và mang lại
những điều may mắn, thuận lợi trong năm mới. Vì lý do đó, nghi thức cúng
Giao thừa còn gọi là cúng rước ông bà. Tùy
vào điều kiện mỗi gia đình mà chuẩn bị mâm cơm cúng Giao thừa và đón
rước ông bà có thể tổ chức vào buổi trưa hoặc buổi chiều ba mươi.
Mâm
ngũ quả của các miền thường được bày biện vào thời điểm này, cũng là để
chưng bày, làm đẹp nhà suốt mấy ngày Tết. Mâm ngũ quả tùy từng miền có
sự khác biệt. Miền Bắc thường bày các loại trái cây như: chuối, bưởi,
đào, hồng, quýt. Miền Nam có thời tiết thuận lợi nên trái cây vào dịp
tết cũng phong phú hơn. Mâm
trái cây trên bàn thờ của người miền Nam bao giờ cũng có hai trái dưa
hấu lớn bên bộ đèn đồng. Ngoài ra còn có đủ các loại trái cây: xoài,
mãng cầu, đu đủ, vú sữa, quýt, nhãn... với nhiều màu sắc đẹp mắt. Tuy
vậy, các loại trái cây được chưng bày trên bàn thờ vào dịp này thường
chú ý đến ý nghĩa hơn là số lượng. Với mong ước được no đủ suốt năm,
người miền Nam sử dụng các loại trái cây như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài,
thơm với ý nghĩa cầu vừa đủ xài, thơm là thơm thảo tức tấm lòng thành
của người dâng cúng lên các bậc tổ tiên.
Ngoài hoa, quả chưng trên
bàn thờ, mâm cơm cúng Giao thừa còn có những món ăn có tính truyền
thống, vừa làm xong để chuẩn bị đón năm mới. Mâm cơm cúng Giao thừa
không quá cầu kỳ, không bày biện nhiều món rườm rà mà cần đầy đủ theo
nghi thức truyền thống. Chính vì vậy, mâm cơm cúng Giao thừa không gọi
là mâm cỗ. Các món ăn giành
cùng giao thừa thường có cặp bánh chưng hay bánh tét vừa nấu xong, là
dĩa thịt kho trứng vừa chuẩn bị cho những ngày Tết cùng với giò, chả,
xôi gấc hoặc thịt gà… Các món ăn trong mâm cơm cúng Giao thừa trước là
cúng Trời, Đất, ông bà tổ tiên, sau là dịp để con cháu sum vầy, quây
quần cùng nhau vào thời khắc cuối cùng của một năm.
Tai heo ngâm
Mâm cỗ Tết truyền thống miền Bắc
Trong
những ngày đầu năm, gia đình có dịp tụ họp đông đủ, con cháu chúc Tết
ông bà, cha mẹ. Người lớn tuổi thì mừng tuổi con cháu. Trong
dịp này, bữa cơm đầu năm thường rất thịnh soạn với nhiều món ngon được
chuẩn bị từ nhiều ngày trước. Do điều kiện địa lý, thói quen trong ăn
uống, phong tục của từng miền có những điểm khác biệt, nên mỗi miền có
mâm cỗ Tết khác nhau, và có tên gọi khác nhau. Ở mỗi địa phương và mỗi
gia đình, mâm cỗ ngày Tết cũng không hoàn toàn giống nhau. Nói mâm cỗ
Tết miền Bắc thực ra cũng có sự khác biệt ở từng vùng miền: miền cao như
Lạng Sơn cũng có khác biệt với Tây Bắc, miền xuôi như Hải Dương, Nam
Định cũng khác với Quảng Ninh, Thái Bình. Mâm cỗ ngày Tết trong bài viết
này xin được nói đến là mâm cỗ truyền thống của Hà Nội.
Trong
mâm cỗ ngày Tết ở các gia đình miền Bắc, món thường thấy là món Bóng.
Bóng có thể được xào hoặc nấu với thịt nạc, đậu cô ve, bông cải và nấm
hương. Ngoài ra cũng không thể thiếu món măng hầm chân giò. Ngoài ra còn
có gà luộc hoặc nộm su hào. Trong bữa cơm cũng không thể thiếu dĩa bánh
chưng được bày cùng với dưa hành.
Chân giò nấu măng
Mâm
cỗ miền Bắc thường khá nghiêm ngặt, ít nhất phải có 4 đĩa, 4 bát không
kể xôi và nước chấm. Gia đình khá giả, có điều kiện thì còn chuẩn bị 8
đĩa, 8 bát. Món ăn bày trên đĩa, cơ bản là có thịt gà, thịt heo, nem
thính, giò lụa. Cũng có thể thêm giò thủ, thịt đông, chả đẫy, nộm su
hào, nộm rau cần và các món xào. Bát thì gồm bát ninh, bát hầm, bát
miến, bát mọc, ngoài ra còn có các món tần. Các món bày trên đĩa được
dùng trước, thường là để nhắm với rượu và ăn chung với xôi. Các món bày
trong ở bát như món măng hầm giò heo, miến gà, mọc thì dùng sau. Đó là
những món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ truyền thống miền Bắc. Bên
cạnh những món trên, tùy từng gia đình, có những nơi còn có các món cá
chép, cá trắm kho riềng, cuốn diếp, cuốn bỗng. Món tráng miệng ngoài các
loại mứt như mứt sen, quất, gừng, hồng khô, ô mai mơ, gừng còn có món
chè kho cũng rất được ưa chuộng vì vừa thơm ngon, lại có tính giải độc
và giả rượu do được chế biến từ nguyên liệu chính là đậu xanh. Chè kho
miền Bắc thường làm rất ngọt và xào kỹ nên có thể để dành được rất lâu.
Trong thời tiết lạnh của ngày Tết, món ăn này có thể để dành được lâu đến 1, 2 tuần lễ.
Mâm cỗ Tết miền Trung
Miền
Trung có đặc điểm chung về điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt nên
ẩm thực nói chung và các món ăn trong mâm cỗ ngày Tết ở miền Trung cũng
có những sắc thái đặc trưng. Cuộc
sống tuy có khó khăn nhưng đến ngày Tết, mâm cơm cúng giao thừa, đón
ông bà cũng như mâm cơm đầu năm cũng phải đầy đủ, tươm tất với ước mong
cả năm được sung túc đầy đủ.
Tré
Ngoài
một số tỉnh Bắc Trung bộ như Nghệ An, Hà Tĩnh vẫn mang sắc thái của cỗ
miền Bắc với quan niệm “mâm cao, cỗ đầy”. Mâm cỗ các tỉnh này vẫn không
thiếu các món: bánh chưng, thịt đông, giò lụa, nem chua, măng hầm giò
heo, miến gà. Các tỉnh còn lại có nhiều điểm khác biệt với cỗ miền Bắc,
món bánh chưng được thay bằng bánh tét, không ăn dưa hành mà là dưa món
và nổi bật là các món bánh phong phú và đa dạng. Các loại bánh này có
đặc điểm là ngọt đậm, được chế biến bằng cách hấp, nướng hoặc sấy kỹ để
có thể dùng ăn dần đến cả tháng vẫn không hư hỏng. Có thể kể các loại bánh tổ, bánh nổ, bánh in, bánh thuẩn, bánh già lam, bảy lửa, bánh đậu xanh sấy, cốm,…. Những
món ăn ngày Tết của người miền Trung thường chú trọng nhiều đến yếu tố
lưu trữ. Món bánh tét thì được gói thật chặt, nhân bánh chỉ đơn giản có
đậu xanh, và lượng đậu xanh trong bánh cũng không quá nhiều, vì vậy có
thể để giành
được gần cả tháng. Món dưa món dùng ăn chung với bánh tét được làm từ
đu đủ, củ cải trắng và cà rốt phơi khô, ngâm với nước mắm được, để lâu
đến mấy tháng vẫn giòn, ngon. Ngoài ra, mâm cỗ ngày tết miền Trung còn
có những món thịt bò, thịt heo ngâm nước mắm, món tré, chả, nem. Miền
Trung còn là nơi nổi bật với thói quen “cuốn” trong phong cách ẩm thực.
Trong bữa ăn hàng ngày, hầu như loại thức ăn nào cũng có thể trở thành
món cuốn đối với người miền Trung, từ thịt luộc cuốn bánh tráng, nem lụi
cuốn bánh tráng, rồi thịt kho, cá kho, cá hấp cũng có thể cuốn chung
với bánh tráng và rau sống. Mà không chỉ với các loại rau xà lát, rau
thơm thường thấy, còn là rau muống, rau chuối cũng có thể cho chung vào
để cuốn. Mâm cơm ngày Tết của các tỉnh miền Trung vì vậy không thể thiếu
các món bánh tráng, rau sống cuốn với các món thịt kho, thịt phay, thịt
ngâm nước mắm, nem chua, chả, tré, thịt bò nướng sả. Bên cạnh đó còn có
các món trộn như có thịt gà trộn rau răm, vả trộn, măng trộn, mít trộn
là những món nguội giành trong mâm cỗ của người Trung, thường được dọn vào đầu bữa ăn để dùng như món khai vị.
Quả sung
Với Huế, mâm cỗ Tết có phần phong phú và đặc sắc hơn. Trong bài này
chưa đề cập đến các món ăn trong cỗ Tết cung đình Huế. Trong dân gian,
cỗ Tết ở Huế chú ý nhiều đến các món bánh mứt cũng như món ăn thể hiện
sự khéo léo, chăm chút của người phụ nữ ở đây. Bên cạnh những món vả
trộn, gà trộn rau răm, thì món gỏi thập cẩm được coi là một món ăn thể
hiện sự cầu kỳ, khéo léo thường được làm vào dịp đầu năm vì có màu sắc
đẹp, nguyên liệu phong phú, đa dạng. Sau đĩa gỏi, cỗ tết ở Huế còn có
các món dùng với cơm bò nấu thưng, bò ngâm nước mắm, cá chiên, chả ram
và các món canh giò heo hầm, canh thập cẩm. Bữa cỗ cũng không thể thiếu
các món nem, chả, tré là đặc trưng trong ẩm thực Huế. Đặc biệt mâm cỗ
tết ở Huế còn thường thấy một chén nhỏ mắm tôm chua. Mắm là một đặc
trưng của ẩm thực Việt Nam. Người ta có thể ăn mắm quanh năm, nhưng mâm
cỗ ngày Tết ở miền Bắc và miền Nam, thường ít thấy món mắm, do quan niệm
ngày xưa cho món mắm là món ăn của nhà nghèo. Tuy nhiên, chén mắm tôm
chua trong mâm cỗ Huế là một nét đặc sắc hiếm có. Ngày nay, khi kinh tế
đầy đủ, bữa ăn ngày Tết với các món ngon từ thịt, cá làm người ta dễ
chán, thì món mắm lại được chú ý. Các bà nội trợ ngày nay, từ Bắc đến
Nam lại thường có thói quen chuẩn bị trong nhà vài món mắm giành
cho những ngày đầu năm, phòng khi cả nhà đã chán thịt mỡ, cá tôm. Cuối
cùng, trong bữa cỗ Huế, các món bánh, mứt mới là món thể hiện được hết
sự khéo léo của người phụ nữ Huế. Có thể kể món bánh đậu xanh nặn hình
trái cây, bánh bó mứt hoặc món mứt quất làm thành nguyên quả và các món
mứt gừng xăm, gừng khô, mứt sen. Phần lớn là những thức ăn ngọt có thể
bảo quản dài ngày, ra đến ra giêng vẫn còn hương vị.
Mâm cơm ngày Tết ở miền Nam
Miền
Nam với đặc trưng của một vùng đất có nhiều sản vật trù phú, thời tiết
thuận lợi cho các loại cây, trái, gia súc, gia cầm hay thủy sản phát
triển, đặc biệt vào dịp Tết. Mâm
cơm ngày Tết của miền Nam có phần phong phú và không gò bó về nghi
thức. Món khai vị cũng có chả, nem, gỏi gà xé phay, kiệu chua, tai heo
ngâm giấm. Các món dự trữ thì có lạp xưởng, bao tử nhồi, da bao. Đối với
đa số các gia đình miền Nam thì Tết đến nhà nào cũng có nồi thịt kho
nước dừa ăn với dưa giá, dưa món, củ kiệu. Có củ
kiệu thì còn phải chuẩn bị tôm khô. Đây là một món đơn giản mà người
miền Nam nào cũng chuẩn bị cho ngày Tết. Khi có khách đến chơi đột xuất,
có thể gắp ngay một dĩa củ kiệu với vài con tôm khô để khách nhâm nhi
với ly rượu trong khi chờ bà chủ nhà chuẩn bị các món ăn khác. Bên cạnh
đó, trong nhà cũng luôn có một
nồi khổ qua hầm với mong muốn cực khổ qua đi. Đây cũng là một món ăn có
tính mát, giúp tiêu thực và giải độc, phù hợp cho những ngày đầu năm.
Bánh tét
Tương tự như miền Trung, mâm cơm tết miền Nam cũng không thể thiếu món bánh tét. Bánh tét
miền Nam thoạt nhìn cũng giống với bánh tét miền Trung, nhưng thực tế
có nhiều khác biệt. Như đã trình bày phần trên, bánh tét miền Trung gói
chặt, nhân đậu xanh ít và chú ý đến yếu tố bảo quản cho được lâu. Bánh
tét miền Trung gói từ gạo nếp sống, chỉ xốc với ít muối, trong khi bánh
tét miền Nam thì rất đa dạng. Sự đa dạng này thể hiện từ nhân bánh, vỏ
bánh cho đến cách tạo hình và chủng loại, màu sắc. Phần nếp bên ngoài có
khi được trộn lẫn với dừa nạo, có khi với đậu đen, hoặc là hạt điều, là
cẩm, lá dứa tạo ra nhiều màu sắc khác nhau. Phần nếp này thường được
xào trên bếp với nước cốt dừa để nếp ra chất nhựa, giúp bánh dễ gói hơn,
ngoài ra, khi ăn sẽ dẻo, thơm và béo ngậy vị dừa. Phần nhân thì ngoài
nhân đậu xanh với mỡ, còn có nhân chuối, nhân thập cẩm, nhân đậu xanh
trứng muối. Một số nơi còn tạo hình bên trong bánh thành hoa mai, chữ
thọ, chữ phúc, khi cắt ra trông rất đẹp và độc đáo. Tuy nhiên phổ biến
nhất vẫn là loại bánh tét nhân đậu xanh với thịt mỡ và lòng đỏ trứng
muối. Khi bày ra bàn sẽ dọn ra ăn kèm với dưa món, củ kiệu, tôm khô, lạp
xưởng. cà rốt, củ cải ngâm nước mắm.
Một số loại bánh tét độc đáo của miền Nam
Món
tráng miệng trong mâm cơm ngày tết ở miền Nam thường có các loại mứt
dừa, mứt me, mứt mãng cầu, mứt gừng dẻo, mứt củ năng, mứt khoai lang.
Một món tráng miệng đặc sắc của miền Nam có tiêu thực rất tốt vào ngày
tết là món cơm rượu. Món cơm rượu của miền Nam có cùng nguyên tắc chế
biến với món rượu nếp miền Bắc. Chỉ khác phần tạo hình và loại nếp sử
dụng. Người miền Bắc dùng nếp lức cho món rượu nếp, còn món cơm rượu của
miền Nam thì làm từ nếp thơm thông thường. Tuy nhiên món rượu nếp của
miền Bắc thường chỉ làm vào dịp tết Đoan ngọ, hay còn gọi là tết sâu bọ
(mùng 5 tháng 5 Âm lịch), còn món cơm rượu ở miền Nam thì cả vào dịp Tết
Nguyên đán, người ta cũng thường hay chuẩn bị để dùng như món tráng
miệng có tác dụng tiêu thực.
Kết luận
Do điều kiện địa lý, khí hậu khác nhau nên mâm cỗ Tết các miền có sự khác biệt, tuy nhiên nhìn chung đều là những món ngon nhất giành cho dịp đầu năm mới, vừa
là tỏ lòng hiếu kính với ông bà tổ tiên, vừa thể hiện lòng hiếu khách
của người Việt Nam. Là một đất nước có truyền thống nông nghiệp, ngày
Tết là ngày nhà nhà đã xong các công việc đồng áng, là thời điểm nghỉ
ngơi, vui chơi kéo dài. Hàng quán, chợ búa cũng không mở cửa hay hoạt
động, nhà nhà có thói quen làm nhiều món ăn để giành trong nhà, gần cả tháng. Các
món ăn chế biến cho các bữa ăn trong dịp đầu năm mới là những món
truyền thống mà ngày thường do công việc bận rộn hoặc cũng một phần do
điều kiện kinh tế không cho phép, người ta ít được thưởng thức. Ngày nay
khi kinh tế phát triển, các món truyền thống ngày Tết như bánh chưng,
bánh tét, thịt kho trứng vịt, giò, chả, nem... đều có thể thưởng thức
quanh năm. Vì vậy mâm cỗ ngày Tết phần nào thiếu đi sự háo hức, mong chờ
của các thành viên trong gia đình. Thay vào đó, ngày nay người ta chú ý
đến yếu tố tiện dụng. Thời gian “ăn tết” cũng rút ngắn, các món ăn chế
biến vào dịp Tết cũng được cân nhắc kỹ lưỡng về dinh dưỡng, sức khỏe, hàm lượng cân đối. Mâm cỗ Tết
ngày nay được đơn giản bớt, hoặc được thêm thắt vài món ăn có tính cách
tân, nhằm thay đổi khẩu vị cho gia đình. Các bà nội trợ chỉ làm hoặc
chuẩn bị những món theo đúng sở thích và truyền thống của gia đình, chú ý
đảm bảo cân bằng về dinh dưỡng, món ăn phù hợp với ẩm thực hiện đại, có
dinh dưỡng lành mạnh, để mâm cỗ Tết vẫn giữ được ý nghĩa truyền thống và
sự thiêng liêng trong tâm thức mỗi người Việt. Sao cho sau mấy ngày
Tết, khi trở về với công việc bình thường người ta sẽ có thêm niềm vui,
thêm sức khỏe, thêm sự phấn chấn để bước vào một năm mới đầy hứa hẹn
những điều tốt đẹp nhất.
Ẩm thực Tết Việt dưới góc nhìn của GS Trần Văn Khê
GS
- TS Trần Văn Khê không chỉ nổi tiếng về kiến thức âm nhạc cổ truyền
dân tộc uyên thâm mà còn là một người rất sành về ẩm thực truyền thống.
Giáo sư cho biết, đối với ông ẩm thực ngày Tết của Việt Nam rất đặc
biệt. Điểm đặc biệt thứ nhất là, từ ngày xưa, người ta luôn tâm niệm
rằng phải có những mâm cỗ Tết vào những ngày Tết cổ truyền, bởi vì “đói
thì ăn cơm cha mà muốn no thì phải ăn ba ngày Tết”.
Phong
tục Tết ngày xưa rất quan trọng chuyện ăn uống, vì vậy, người ta thường
không nói là “lễ Tết” mà là “ăn Tết”. Nhưng mà cái “ăn Tết” ở đây quan
trọng không phải là lựa những món ngon vật lạ, mà là lựa những món có
thể để được lâu, lựa những món liên quan đến truyền thống của chúng ta.
Ở
người ngoài Bắc thì luôn nhớ đến câu: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Không có thịt mỡ, không có dưa
hành, không có bánh chưng là không phải ngày Tết. Điều đó làm nên nét
đặc trưng của món ăn ngày Tết. Thế nhưng, miền Bắc thích ăn bánh chưng
còn miền Nam thì lại thích bánh tét. Dưa hành của miền Bắc thì trong Nam
lại là dưa giá. Miền Trung thì không ăn dưa hành, không ăn dưa giá, mà
là ăn dưa món.
Mâm cỗ Tết miền Bắc. Ảnh Ý Nhạc
Thành
ra ba miền, mỗi miền lại có một thứ dưa ăn ngày Tết khác nhau. Ngoài
ra, ngày Tết miền bắc, vì thời tiết lạnh nên luôn luôn có loại thịt đặc
biệt là thịt đông. Trong Nam thì lại có thịt kho nước dừa. Về giò chả
thì miền Bắc có chả lụa, chả quế. Còn chả đầu (giò thủ) thì cũng rất đặc
biệt và đều ngon dù ở bất cứ miền nào. Chả đầu miền Trung gần giống chả
đầu miền Bắc, nhưng khác hơn là để thịt chua vào.
Vì vậy mà chả đầu ở Huế ăn
chua hơn chả đầu của miền Bắc. Ngoài ra, còn có các loại canh, có nơi
thích canh khổ qua, có nơi thích canh măng… Ngày Tết, luôn có những món
ăn đặc trưng cho mỗi vùng, bên cạnh đó còn có một phong tục ẩm thực khác
đó là mâm ngũ quả. “Ngũ” là năm (5), “quả” là trái. Số 5 đó vô cùng
quan trọng bởi vì có thể nói, người Việt Nam sống với số 5. Cuộc đời con
người dính với ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; nấu ăn thì phải làm
sao có ngũ sắc - năm màu (vàng, đen, trắng, đỏ, xanh); nếm thức ăn phải
có năm vị (ngọt, mặn, chua, cay, đắng); đờn thì có ngũ âm (hò, xự, xang,
xê, cống)… thì mâm ngũ quả cũng như thế.
Ngũ
quả ngày xưa là những trái mận, trái đào, trái táo… thì bây giờ ngũ quả
ở miền Nam là lựa các loại trái có thể nói lên được lời ước ao của
mình. Cho nên, trên mâm ngũ quả của người miền Nam ngày nay luôn luôn có
trái đu đủ lớn ở chính giữa, kế bên đó là trái dừa, có những trái mãng
cầu, trái sung, rồi trái xoài, tất cả đọc theo giọng miền Nam thì sẽ là
“cầu vừa đủ xài và sung túc”. Ngũ quả ở miền Bắc thì gồm những trái cây
khác như trái quít, trái phật thủ…
Hai
trái dưa hấu lớn đặt hai bàn thờ cũng là nét ẩm thực Tết Việt rất đặc
biệt. Trái dưa hấu bên ngoài thì xanh nhưng mà cắt ra trong lòng thì đỏ
như son. Ngoài ra, những món ăn chơi không thể thiếu trong ngày Tết cổ
truyền là mứt với kẹo. Mứt của người Bắc thì có thể là một hộp với 12
loại mứt mà mỗi thứ mứt không chỉ cho ngon, mà còn trị bệnh được. Như ăn
mứt gừng thì luôn luôn ấm trong lòng, mứt bí thì giúp thanh thản, nhẹ
nhàng… Cả miền Bắc, miền Trung, miền Nam đều có thứ kẹo chung mà chúng
ta gọi là ăn kẹo thèo lèo, Tết nào cũng có. Hay kẹo lạc ngoài Bắc, kẹo
đậu phộng trong Nam, hay miền Trung thì có kẹo mè xửng…
Ẩm
thực của Việt Nam, nhất trong những ngày Tết cổ truyền, luôn liên quan
đến các câu truyện huyền thoại, liên quan với những tư duy, với những
nét sống của người Việt Nam và được thay đổi theo mỗi miền, nhưng vẫn có
những sắc thái thật đặc biệt. Từ khi GS Trần Văn Khê còn nhỏ, trong gia
đình ngày Tết luôn có thịt kho dưa giá. Đó cũng chính là món ăn “khoái
khẩu” của giáo sư trong ngày Tết. Giáo sư nhớ lại: “Cho đến mãi lúc đi
bên Tây tôi vẫn nhớ món ăn đó, tôi rất thèm, nhưng bên Tây không có nước
dừa xiêm, mãi sau này mới có.
Tôi
tìm đến cách kho thịt với nước chanh, kho thịt với nước ngọt… nhưng
cũng không thể bằng. Rốt cuộc thì tôi nhận thấy kho thịt với mật ong thì
gần giống với nước dừa xiêm nhất”. Đối với GS Trần Văn Khê, trong những
món ăn truyền thống của Tết Việt và cả món ăn thường này, thì thịt kho
nước dừa xiêm là món ăn tuyệt vời. Cách thưởng thức ẩm thực tuyệt vời
nhất của người Việt là khéo lựa thịt ba rọi (hay ba chỉ), của con heo,
nhưng phải là con heo nái. GS Trần Văn Khê cảm thán: “Mà con heo nái,
cái da của nó ăn với chút mỡ dính với miếng thịt nạc, không thể nói
được!...
Ba
cái, vừa mỡ, vừa nạc, vừa thịt, ăn vô một miếng nó thao ở trong miệng.
Người Việt mà đã thưởng thức những cái như vậy, đã thấm nhuần những cái
như vậy rồi, thì sẽ thấy không có cái gì thay thế được. Tôi cũng sống ở
miền Bắc một thời gian, cũng thích ăn thịt đông, nhưng tôi sanh ở miền
Nam, mặc dù sống bên Pháp, nhưng khi tôi trở về đây, tôi vẫn còn thích thịt kho nước dừa và dưa giá”.
Theo dulichtet.com
Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)